Thang điểm barthel là gì? Các công bố khoa học về Thang điểm barthel

Thang điểm Barthel là công cụ đánh giá chức năng, được phát triển trong thập niên 1960, giúp xác định mức độ độc lập của bệnh nhân trong các hoạt động hàng ngày. Bao gồm 10 hoạt động như di chuyển, ăn uống, tự chăm sóc, thang điểm này chấm từ 0 đến 100, phản ánh mức độ độc lập hay phụ thuộc của người bệnh. Ứng dụng rộng rãi trong y tế, Barthel hỗ trợ lập kế hoạch chăm sóc và phục hồi, dù tồn tại hạn chế trong đánh giá chi tiết và không phù hợp với mọi bệnh lý. Tương lai, công nghệ có thể cải thiện công cụ này cho kết quả cá nhân hóa hơn.

Thang Điểm Barthel: Khái Niệm và Lịch Sử Phát Triển

Thang điểm Barthel là một công cụ đánh giá chức năng, được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực y tế để xác định mức độ độc lập của bệnh nhân trong các hoạt động hàng ngày. Được phát triển lần đầu vào thập niên 1960 bởi nhà nghiên cứu D.W. Barthel, thang điểm Barthel nhằm mục đích đánh giá khả năng thực hiện các hoạt động cơ bản hằng ngày của người bệnh, thường áp dụng cho những bệnh nhân gặp khó khăn trong sinh hoạt do bệnh lý hoặc thương tật.

Các Hoạt Động Đánh Giá trong Thang Điểm Barthel

Thang điểm Barthel bao gồm 10 hoạt động chính mà bệnh nhân có thể thực hiện hàng ngày.

  • Di chuyển: Đánh giá khả năng di chuyển từ giường ra ghế, từ tư thế ngồi đến đứng và ngược lại.
  • Đi lại: Bao gồm việc đánh giá khả năng đi bộ một quãng ngắn hoặc sử dụng xe lăn.
  • Ghi vệ sinh cơ bản: Đánh giá khả năng tự chủ trong việc đi vệ sinh.
  • Chăm sóc cá nhân: Khả năng tự chăm sóc cá nhân như vệ sinh răng miệng, tắm gội.
  • Ăn uống: Đánh giá khả năng tự ăn mà không cần sự trợ giúp đáng kể.
  • Phòng tắm: Khả năng tự vệ sinh cá nhân trong phòng tắm mà không cần sự giúp đỡ.
  • Mặc quần áo: Đánh giá khả năng tự mặc và cởi quần áo.
  • Thang điểm đi vệ sinh: Đánh giá mức độ kiểm soát trong việc đi vệ sinh.
  • Đi lại lên xuống cầu thang: Khả năng di chuyển lên xuống cầu thang.
  • Chuyển dịch trong phòng: Khả năng di chuyển trong phòng và giữa các phòng với sự trợ giúp tối thiểu.

Cách Tính Điểm và Ý Nghĩa

Thang điểm Barthel được tính bằng cách cho điểm từ 0 đến 100, với từng hoạt động được phân chia theo mức độ độc lập của bệnh nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Một điểm số cao trên thang điểm Barthel cho thấy bệnh nhân có mức độ độc lập cao trong các hoạt động hàng ngày, trong khi điểm số thấp ngụ ý sự phụ thuộc vào sự trợ giúp từ người khác.

Một số tiêu chí cộng điểm tiêu biểu là:

  • Hoàn toàn độc lập: 10 điểm cho mỗi hoạt động.
  • Một phần phụ thuộc: 5 điểm cho mỗi hoạt động.
  • Hoàn toàn phụ thuộc: 0 điểm cho mỗi hoạt động.

Ứng Dụng Trong Thực Tế

Thang điểm Barthel được sử dụng nhiều trong các cơ sở y tế như bệnh viện, trung tâm phục hồi chức năng và viện dưỡng lão. Nó giúp các chuyên gia y tế xác định kế hoạch chăm sóc và phục hồi chức năng phù hợp. Ngoài ra, thang điểm này còn cung cấp thông tin có giá trị trong việc đánh giá tiến bộ của bệnh nhân trong quá trình điều trị và chăm sóc dài hạn.

Những Hạn Chế và Diễn Biến Tương Lai

Mặc dù thang điểm Barthel là một công cụ hữu ích, nhưng nó cũng có những hạn chế nhất định. Thang điểm này không đánh giá được chi tiết về chất lượng thực hiện các hoạt động và không áp dụng cho tất cả các nhóm bệnh lý. Nghiên cứu hiện đại đang tìm cách mở rộng và cải tiến thang điểm này để có thể bao quát nhiều tình huống và đối tượng bệnh nhân hơn.

Trong tương lai, sự phát triển của thang điểm Barthel có thể được hỗ trợ bởi công nghệ và dữ liệu lớn, giúp cung cấp các đánh giá chính xác và cá nhân hóa hơn cho từng bệnh nhân, từ đó nâng cao hiệu quả của các chương trình phục hồi chức năng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thang điểm barthel":

Nhận xét đặc điểm lâm sàng và mức độ hoạt động độc lập trong sinh hoạt hàng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 4 - Trang 77-83 - 2020
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng và xác định tỷ lệ hoạt động độc lập trong sinh hoạt hàng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại khoa Thần kinh và khoa Nội Cán bộ Lão khoa-Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 112 bệnh nhân được chẩn đoán tai biến mạch máu não, đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, được quan sát đánh giá mức độ hoạt động độc lập theo thangđiểm Barthel. Kết quả: Điểm Barthel trung bình của người bệnh là 55,00 28,18. Tỷlệngười bệnh độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày là 17,9%, tỷlệngười bệnh cần trợgiúp là 42,9% và phụthuộc hoàn toàn là 39,3%. Kết luận: Tỷ lệ người bệnh cần sự trợgiúp trong hoạt động hàng ngày còn khá cao nên đòi hỏi nhân viên y tế và người nhà phải có sự quan tâm đặc biệt đến những người bệnh bị tai biến mạch máu não
#Tai biến mạch máu não #hoạt động độc lập #thang điểm Barthel.
Khảo sát mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh sau đột quỵ não tại Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đà Nẵng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 7 Số 04 - Trang 132-144 - 2024
Mục tiêu: Khảo sát mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày và xác định một số yếu tố liên quan của người bệnh sau đột quỵ não. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 217 người bệnh đột quỵ não tại khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đà Nẵng từ tháng 10/2022-04/2023. Bộ công cụ nghiên cứu đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt hằng ngày 10 chỉ số theo thang điểm Barthel – BI. Kết quả: Phần lớn người bệnh sau đột quỵ não có nhu cầu hỗ trợ chăm sóc với điểm Barthel trung bình là khá thấp (37,6267 ± 35,03984), 62,7% người bệnh phụ thuộc hoàn toàn trong sinh hoạt hằng ngày, trong đó đối với 10 hoạt động hàng ngày, nhu cầu chăm sóc lúc tắm chiếm tỷ lệ cao nhất (74,2%) và thấp nhất là kiểm soát đại tiện (32,3%). Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với mức độ độc lập trong sinh hoạt hằng ngày của người bệnh sau đột quỵ não bao gồm: Độ tuổi, nơi cư trú, trình độ học vấn, nghề nghiệp, người tham gia chăm sóc chính, tình trạng hút thuốc lá, thói quen sử dụng rượu bia, và bệnh lý kèm theo. Kết luận: Mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh sau đột quỵ khá thấp, tuy nhiên một số người bệnh sau đột quỵ não vẫn có thể độc lập hoàn toàn hoặc chỉ phụ thuộc một phần. Vì vậy, kế hoạch chăm sóc cần được xây dựng phù hợp cho từng đối tượng người bệnh cụ thể.
#Mức độ độc lập #đột quỵ não #sinh hoạt hàng ngày #thang điểm Barthel. #nghiên cứu mô tả cắt ngang
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH DI CHỨNG VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC LONG KHÁNH TỈNH ĐỒNG NAI VÀ CỘNG ĐỒNG NĂM 2022-2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 66 - Trang 134-140 - 2023
Đặt vấn đề: Bệnh đột quỵ hay còn gọi là tai biến mạch máu não hiện nay vẫn là vấn đề mang tính cấp thiết, bệnh gây ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng sống, có thể gây tử vong nhanh hoặc để lại nhiều di chứng nặng nề đối với người bệnh, gia đình và cả cộng đồng quốc gia của họ, vai trò can thiệp phục hồi chức năng ở bệnh nhân sau đột quỵ tại Bệnh viện và sau khi xuất viện, bệnh nhân vẫn còn di chứng liệt, họ cần tiếp tục phục hồi chức năng còn lại, đó là vấn đề cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu: 1). Xác định tỷ lệ di chứng ở bệnh nhân tai biến mạch máu não sau điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực Long Khánh;2). Đánh giá kết quả phục hồi di chứng vận động sau ba tháng, và sau sáu tháng ở bệnh nhân tai biến mạch máu não tại cộng đồng năm 2022-2023; 3). Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả phục hồi di chứng vận động ở bệnh nhân tai biến mạch máu não tại cộng đồng năm 2022-2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích và can thiệp cộng đồng không nhóm chứng, được tiến hành trên 525 người bệnh can thiệp phục hồi chức năng tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực Long Khánh, từ tháng 09.2022 đến 02.2023. Kết quả: Khả năng độc lập các sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân theo thang điểm BARTHEL sau 06 tháng: độc lập 65,33%, phụ thuộc ít 16%, phụ thuộc nhiều 04,67%, phụ thuộc hoàn toàn 14%. Sự thay đổi chỉ số BI có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Kết luận: Đối với những người bệnh sống sót sau đột quỵ não có nhiều di chứng, cần can thiệp phục hồi chức năng sớm, giúp cải thiện về vận động, thể chất, tinh thần và chất lượng cuộc sống.
#Đột quỵ #thang điểm BARTHEL #bệnh viện
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SUY GIẢM VẬN ĐỘNG THEO THANG ĐIỂM BARTHEL VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG TRÊN BỆNH NHÂN SAU ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG NĂM 2020-2021
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 43 - Trang 160-164 - 2021
  Đặt vấn đề: Sau đột quỵ não, phục hồi chức năng để giảm mức độ tàn phế, giúp bệnh nhân thực hiện được các chức năng sinh hoạt hàng ngày và tái hội nhập cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình suy giảm vận động theo thang điểm Barthel và đánh giá kết quả phục hồi chức năng trên bệnh nhân sau đột quỵ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang và chọn mẫu thuận tiện được 191 bệnh nhân; phân tích số liệu bằng phần mềm STATA 8.0. Kết quả: Số bệnh nhân có mức độ phụ thuộc hoàn toàn chiếm tỷ lệ 34%, sau can thiệp phục hồi chức năng giảm còn 18,9%; trong nghiên cứu, trước can thiệp không có bệnh nhân có mức độ độc lập sinh hoạt hoàn toàn, sau 6 tháng tỷ lệ đạt là 30,9%. Kết luận: Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy phục hồi chức năng có hiệu quả. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ độc lập trong sinh hoạt tăng lên rõ rệt sau 6 tháng phục hồi chức năng, sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê.
#Đột quỵ não #suy giảm vận động #phục hồi chức năng #thang điểm Barthel
Tổng số: 4   
  • 1